Kỷ niệm 44 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2019): ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH HÀNG ĐẦU
Hòa trong không khi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nô nức hoạt động, thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 44 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2019); 133 năm Ngày Quốc tế lao động (1/5/1886 – 1/5/2019). Đây là chặng đường lịch sử oanh liệt của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phòng toàn miền Nam thống nhất đất nước của dân tộc ta.
Sau thất bại của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ, Chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, áp dụng chủ nghĩa thực dân mới âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Lúc này trên thế giới đã phân chia thành hai hệ thống đối đầu gay gắt bằng “Chiến tranh lạnh” đồng thời chạy đua vũ trang quyết liệt. Hệ thống XHCN, phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào giải phóng dân tộc ở khắp thế giới dâng cao. Trong nước, sau 9 năm kháng chiến chống Pháp, miền Bắc được giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng CNXH; miền Nam vẫn dưới ách thống trị của đế quôc Mỹ và tay sai. Vì vậy đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước là nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân tộc.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta trải qua gần 21 năm, là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và nhiều thách thức, ác liệt. Đảng và nhân dân ta phải đấu trí, đấu sức chống đế quốc hùng mạnh, hung bạo nhất trong phe đế quốc. Cuộc kháng chiến này trải qua nhiều giai đoạn, phải đối phó lần lượt với các kế hoạch, chiến lược của đế quốc Mỹ.
1. Giai đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960: Đây là giai đoạn đấu tranh giữ gìn lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ.
Thất bại tại chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954 buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ 3 nước Đông Dương. Nhưng với âm mưu và ý đồ đã tính từ trước, đế quốc Mỹ trắng trợn phá hoại Hiệp định, hất cẳng Pháp dựng chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm, thực hiện chính sách thực dân mới “Tố cộng”, “Diệt cộng” đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành Luật 10/59 “Đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, biến miền Nam thành tràn ngập nhà tù, trại giam. Cách mạng miền Nam bị dìm trong biển máu.
Đứng trước tình thế mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân và dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Một là, cách mạng XHCN ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ cách mạng vững mạnh của cả nước. Hai là,cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của, đế quốc Mỹ và tay sai, thống nhất đất nước. Trong ba năm (1958-1960) miên Bắc cơ bản đã hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN, xóa bỏ chế độ bóc lột, bước đầu xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội theo con đường đi lên CNXH, chuẩn bị một số nội dung cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới. Ở miền Nam cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt nhưng đại bộ phận nhân dân một lòng theo Đảng, chống áp bức, bảo vệ lực lượng cách mạng. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời, xác định rõ mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ chiến lược của cách mạng hai miền, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam, định hướng và động viên nhân dân miền Nam vùng lên đấu tranh, tạo ra phong trào Đồng khởi (1959-1960) xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, làm tan rã hàng loạt bộ máy Ngụy quyền ở các thôn xã.
2. Giai đoạn từ đầu năm 1961 đến giữạ năm 1965: Đây là giai đoạn giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
Đó là chiến lược dùng quân đội Ngụy và tay sai làm công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét dồn dân vào ấp chiến lược, đưa 10 triệu nông dân miền Nam vào các trại tập trung, tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp với đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, đánh địch bằng 3 mũi giáp công trên cả 3 vùng chiến lược, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và tay sai. Quân và dân miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho miền Nam.
3. Giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1968: Đây là giai đoạn phát động toàn dân chống Mỹ cứu nước, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc.
Chúng sử dụng quân đội Mỹ là lực lượng cơ động chủ yếu để tiêu diệt bộ đội chủ lực ta, dùng Ngụy quân, Ngụy quyền để bình định, kìm kẹp nhân dân, âm mưu đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25-30 tháng, đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân. Trên chiến trường miền Nam quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm lược Mỹ ngay từ những trận đầu chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp theo những trận thắng oanh liệt ở Núi Thành, Plâyme, Bàu Bàng… Ta đánh bại 3 cuộc hành quân lớn của Mỹ vào miền Đông Nam bộ ở chiến trường Tây Nguyên, đồng bằng Nam bộ và các thành phố lớn. Quân dân miền Bắc đánh trả cuộc tiến công của Mỹ bằng không quân và hải quân giành thắng lợi lớn trên nhiều mặt. Đặc biệt cuộc tổng tiến công và nổi đậy Tết Mậu Thân (1968) đã giáng đòn quyết định vào chiến lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán với ta tại hội nghị Pa-ris, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn mới.
4. Giai đoạn năm 1969 đến năm 1973: là giai đoạn phát huy sức mạnh liên minh chiến đấu với Lào, Cam-pu-chia làm thất bại một bước chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ 2 ở miền Bắc tạo thế mạnh trong đàm phán.
Đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, mục đích từng bước mở rộng chiến tranh Cam-pu-chia và Lào, thủ đoạn là thực hiện chiến tranh hủy diệt, giành dân, chiến tranh bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên cả hai miền Nam Bắc. Nhờ chuẩn bị tốt lực lượng, đúng thời cơ, quân và dân ta liên tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược năm 1972, đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng B52 của Mỹ, làm thay đổi cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh. Trong đàm phán ta cũng khôn khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa “đánh và đàm”, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa-ris, rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam.
5. Giai đoạn năm 1973 đến ngày 30/4/1975: là giai đoạn tạo thế và lực, tạo thời cơ kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc thắng lợi toàn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng Ngụy quân, Ngụy quyền là công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 12 khẳng định con đường cách mạng miền Nam là con đường bạo lực. Tháng 7/1974, Đảng ta chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, nếu thời cơ đến sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975. Chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 đầu năm 1975 cho thấy sự suy yếu của quân đội Sài Gòn và khả năng Mỹ khó quay lại Việt Nam. Đảng ta nhận định thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, bắt đầu từ ngày 4/3 bằng đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu bằng trận đánh chiếm Buôn Mê Thuột giải phóng Tây Nguyên; Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn - Gia Định kết thúc vào ngày 30/4. Gần 2 tháng chiến đấu với sức mạnh áp đảo về chính trị và quân sự, quân và dân ta đã giành được toàn thắng, kết thúc 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Nhân dân Sài Gòn vui mừng chào đón Quân giải phóng - Ảnh: Tư liệu
* Ý nghĩa lịch sử:
Đối với Việt Nam: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc. Nhân dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt 30 năm giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đánh dấu bước ngoặt quyết định lịch sử dân tộc đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, dân tộc, tự do, cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Đối với thế giới: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thắng lọi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hòa bình dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc; mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.
Quân giải phóng áp giải Tổng thống Dương Văn Minh và ban lãnh đạo Ngụy quyền Sài Gòn ngày 30/4/1975 - Ảnh: Tư liệu
* Nguyên nhân thắng lợi:
Một là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Hai là, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, quên mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì quyền con người.
Ba là, cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh thắng giặc Mỹ.
Năm là, đoàn kết liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và Cam-pu-chia, đoàn kết quốc tế.
Đại tá NGUYỄN VĂN RẠI,
Trưởng phòng Kỹ thuật nghiệp vụ, Công an tỉnh