Công an tỉnh Bình Phước triển khai thi hành Luật Tiếp cận thông tin
Luật Tiếp cận thông tin được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 06/4/2016, có hiệu lực thi hành từ 01/7/2018. Đây là một đạo luật có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc cụ thể hóa quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 - đó là “quyền được biết” của nhân dân là dấu mốc quan trọng trong việc thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Việt Nam là nước thứ 122 trên thế giới ban hành Luật tiếp cận thông tin.
Cùng với các sở, ban, ngành trên địa bàn tỉnh Bình Phước, Giám đốc Công an tỉnh cũng đã ban hành văn bản chỉ đạo các đơn vị trong toàn lực lượng Công an tỉnh Bình Phước triển khai thi hành Luật tiếp cận thông tin, theo đó, thủ trưởng các đơn vị nghiệp vụ Công an tỉnh, Công an các huyện, thị xã có trách nhiệm tổ chức quán triệt đến toàn thể cán bộ, chiến sĩ nắm và thi hành các quy định của Luật, đảm bảo quyền được tiếp cận thông tin của nhân dân; Luật Tiếp cận thông tin được thi hành là cầu nối giữa nhân dân và Cơ quan Công an trong việc được biết, được nắm các thông tin về tình hình an ninh, trật tự, từng bước tác động, tạo sự minh bạch thông tin, phòng chống các nguồn thông tin sai lệch, không chính thống, góp phần đẩy lùi tình trạng cửa quyền, tiêu cực và phòng chống tham nhũng.
Luật Tiếp cận thông tin gồm 5 chương, 37 điều, quy định về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân, nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân.
Theo đó, chủ thể quyền tiếp cận thông tin là công dân bao gồm cả: người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người đại diện theo pháp luật; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người giám hộ; người dưới 18 tuổi yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp luật về trẻ em và luật khác có quy định khác; riêng, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam sẽ chỉ được cung cấp những thông tin có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ (quy định tại Điều 4 và Điều 36).
Luật xác định rõ nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, trong đó có nguyên tắc: mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin (quy định tại Điều 3).
Luật quy định cụ thể thông tin người dân được tiếp cận và thông tin công dân không được tiếp cận. Theo đó, Công dân được tiếp cận thông tin của cơ quan nhà nước; thông tin công dân không được tiếp cận gồm: Thông tin thuộc bí mật nhà nước, bao gồm những thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác theo quy định của luật, khi thông tin thuộc bí mật nhà nước được giải mật thì công dân được tiếp cận theo quy định của Luật; thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ (quy định cụ thể tại Điều 5, Điều 6 và Điều 7).
Luật cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước từ cơ quan hành pháp, tư pháp đến cơ quan lập pháp cung cấp thông tin cho công dân; đồng thời quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân. Điều cần lưu ý, các cơ quan chỉ có trách nhiệm đối với thông tin do cơ quan mình tạo ra.
Về trình tự, thủ tục yêu cầu tiếp cận thông tin: Theo quy định của Luật, tùy từng trường hợp cụ thể mà tuân thủ trình tự, thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin, cụ thể là:
- Trường hợp cung cấp thông tin trực tiếp tại trụ sở cơ quan cung cấp thông tin: đối với thông tin đơn giản, có sẵn thì có thể cung cấp ngay; đối với thông tin phức tạp, cần tập hợp từ các bộ phận của cơ quan đó hoặc phải có ý kiến của cơ quan khác thì chậm nhất là 10 ngày làm việc; trường hợp cần gia hạn tìm kiếm thì tối đa không quá 10 ngày làm việc. Người yêu cầu cung cấp thông tin được trực tiếp đọc, xem, nghe, ghi chép, sau chép, chụp tài liệu.
- Trường hợp cung cấp thông tin qua mạng điện tử: đối với thông tin đơn giản, có sẵn thì chậm nhất là 03 ngày làm việc; đối với thông tin phức tạp, cần tập hợp từ các bộ phận của cơ quan đó hoặc phải có ý kiến của cơ quan khác thì chậm nhất là 15 ngày làm việc; trường hợp cần gia hạn thì tối đa không quá 15 ngày làm việc. Việc cung cấp thông tin qua mạng điện tử được thực hiện bằng các cách thức: gửi tập tin đính kèm thư điện tử, cung cấp mã truy cập một lần, chỉ dẫn địa chỉ truy cập để tải thông tin.
- Trường hợp cung cấp thông tin thông qua dịch vụ bưu chính, fax: đối với thông tin đơn giản, có sẵn thì chậm nhất là 05 ngày làm việc; đối với thông tin phức tạp, cần tập hợp từ các bộ phận của cơ quan đó hoặc phải có ý kiến của cơ quan khác thì chậm nhất là 15 ngày làm việc; trường hợp cần gia hạn thì tối đa không quá 15 ngày làm việc.
Luật Tiếp cận thông tin đã ra đời và được đánh giá là một đạo Luật có nhiều quy định tiến bộ. Luật được kỳ vọng sẽ giúp dân có quyền tiếp cận thông tin, giúp “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Để Luật tiếp cận thông tin được thực hiện một cách nghiêm túc và thống nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2018/NĐ-CP ngày 23/01/2018 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật tiếp cận thông tin.Theo tôi, việc thực hiện nghiêm túc Luật tiếp cận thông tin sẽ đem lại lợi ích cho nhân dân và cơ quan Nhà nước nói chung, nhân dân và Cơ quan Công an nói riêng. Người dân có thể kiểm soát được hoạt động của các cơ quan Nhà nước, còn các cơ quan Nhà nước cũng chủ động đưa các thông tin chính thống tới nhân dân, giúp người dân hiểu, nắm các quy định của pháp luật, hợp tác với cơ quan Nhà nước, đặc biệt là cơ quan Công an, với vai trò bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội phải chủ động trong việc cung cấp, công khai những thông tin mà theo quy định của Luật phải được công khai, đặc biệt là những thông tin “nóng” về tình hình an ninh trật tự mà dư luận đang quan tâm, phản bác những thông tin sai lệch của các thế lực thù địch, phần tử xấu tạo ra, đây cũng là một trong các nhiệm vụ phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân, góp phần phòng chống các thông tin có nội dung xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp, luật của Nhà nước.
VŨ XUÂN QUYNH