Admin
Một số điểm mới cần lưu ý của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính có liên quan trực tiếp đến quá trình thực thi nhiệm vụ của cán bộ chiến sĩ Công an nhân dân
Lượt xem: 392
Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2012, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2013, trừ các quy định liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân xem xét, quyết định có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2014. Xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính nói riêng là công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước nhằm duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý hành chính của Nhà nước. Đây cũng là vấn đề trực tiếp liên quan đến đời sống nhân dân, có ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. 

Sau hơn 07 năm triển khai thi hành, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sau đây gọi tắt là Luật XLVPHC năm 2012) đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập lớn, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các văn bản pháp luật khác có liên quan và phù hợp với tình hình thực tiễn. Ngày 13/11/2020, với 446 đại biểu Quốc hội tán thành, đạt tỷ lệ 92,53%, Quốc hội khóa XIV đã thông qua toàn văn Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022, Luật có ba điều: Điều 1, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính; Điều 2, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 163 của Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 64/2014/QH13 và Luật số 23/2018/QH14 và Điều 3, hiệu lực thi hành. Sau đây là một số điểm mới cần lưu ý của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính (sau đây gọi tắt là Luật XLVPHC năm 2020) có liên quan trực tiếp đến quá trình thực thi nhiệm vụ của cán bộ chiến sĩ Công an nhân dân:

1. Về giải thích từ ngữ
Luật XLVPHC năm 2020 đã sửa đổi phần giải thích từ ngữ đối với “tái phạm” theo hướng tách bạch giữa xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đồng thời bỏ quy định tính thời hạn tái phạm kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính, cụ thể như sau:

“Tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử phạt; cá nhân đã bị ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý  hành chính mà lại thực hiện hành vi thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đó”.

2. Bổ sung quy định về nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính (tại điểm d khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC năm 2012), từ: “Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm” thành “Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ trường hợp hành vi vi phạm hành chính nhiều lần được Chính phủ quy định là tình tiết tăng nặng”.

- Quy định này đã khắc phục được vướng mắc trong quá trình thi hành Luật XLVPHC năm 2012 khi mà một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm thì có nơi xử phạt từng hành vi, có nơi xử phạt 1 hành vi rồi áp dụng tình tiết tăng nặng dẫn đến áp dụng pháp luật không thống nhất.

3. Về thẩm quyền quy định xử phạt: Luật XLVPHC năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới về thẩm quyền xử phạt, riêng đối với lực lượng Công an nhân dân, tại khoản 4 Điều 39 đã bổ sung thêm các chức danh: Trưởng phòng An ninh mạng và phòng chống tội phạm công nghệ cao, Trưởng phòng An ninh đối ngoại, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Cảnh sát cơ động, Thủy đoàn trưởng và bỏ các chức danh Trưởng phòng An ninh văn hóa, tư tưởng, Trưởng phòng An ninh thông tin (Luật XLVPHC năm 2020 giữ lại chức danh Trưởng phòng An ninh chính trị nội bộ và Trưởng phòng an ninh chính trị nội bộ có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trên các lĩnh vực an ninh văn hóa, an ninh thông tin nên việc bỏ các chức danh Trưởng phòng An ninh văn hóa, tư tưởng, Trưởng phòng An ninh thông tin là phù hợp).

4. Về thời hiệu xử phạt hành vi phạm hành chính: bổ sung thêm quy định thời hiệu xử phạt đối với vi phạm về hóa đơn là 02 năm và sửa đổi thời hiệu xử phạt 02 năm về thủ tục thuế thành: “Vi phạm hành chính về thuế thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về quản lý thuế”.

 5. Luật đã sửa đổi, bổ sung những hành vi bị nghiêm cấm, gồm: Xác định hành vi vi phạm hành chính không đúng; áp dụng hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả không đúng, không đầy đủ đối với hành vi vi phạm hành chính. Không theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt.



Cán bộ Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Bình Phước
đang kiểm tra nồng độ cồn của người tham gia giao thông đường bộ

6. Tăng mức tiền phạt tối đa trong nhiều lĩnh vực, trong đó có một số lĩnh vực cần chú ý:
- Bổ sung mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực hoạt động tố tụng là 400 triệu đồng;
- Bổ sung mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực an ninh mạng là 100 triệu đồng;
- Tăng mức phạt tiền trong lĩnh vực cơ yếu tối đa 50 triệu đồng lên 75 triệu đồng;
- Tăng mức phạt tiền trong lĩnh vực giao thông đường bộ tối đa 40 triệu đồng lên 75 triệu đồng;
- Tăng mức phạt tiền trong lĩnh vực phòng, chống tệ nạn xã hội (ma túy, mua bán dâm, đánh bạc) tối đa 40 triệu đồng lên 75 triệu đồng.

7. Về quy định tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn:

Luật XLVPHC năm 2012 chỉ quy định về thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn là hình phạt và thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề từ 01 tháng đến 24 tháng, kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực thi hành, nhưng không quy định nguyên tắc áp dụng nên tại nhiều đơn vị có các cách áp dụng khác nhau; Luật XLVPHC năm 2020 đã bổ sung nguyên tắc áp dụng tước thời hạn giấy phép, chứng chỉ hành nghề như sau: “Thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn, đình chỉ hoạt động cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung thời gian tước, đình chỉ được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thời thời gian tước, đình chỉ có thể giảm xuống nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu của khung thời gian tước, đình chỉ; nếu có tình tiết tăng nặng thì thời gian tước, đình chỉ có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung thời gian tước, đình chỉ”.

8. Về giao quyền xử phạt: Luật XLVPHC năm 2020 quy định người có thẩm quyền xử phạt có quyền giao quyền cho cấp phó và việc giao quyền phải bằng quyết định (trước đây chỉ quy định bằng văn bản); bổ sung quy định đồng thời với việc giao quyền xử phạt thì giao quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn và đảm bảo xử lý vi phạm hành chính. Cấp phó được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính phải chịu trách nhiệm về quyết định xử phạt vi phạm hành chính của mình trước cấp trưởng và trước pháp luật. Người được giao quyền không được giao quyền cho người khác.

9. Quy định về lập biên bản vi phạm hành chính: Nhằm khắc phục những vướng mắc trong quy định về lập biên bản vi phạm hành chính của Luật XLVPHC năm 2012, Luật XLVPHC năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới, tiêu biểu:

 - Trước đây, Luật XLVPHC năm 2012 không quy định lập biên bản ở đâu, đến khi Nghị định 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính Phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 81/2013/NĐ-CP trong phần biểu mẫu biên bản vi phạm hành chính có hướng dẫn cách ghi biên bản là ở nơi xảy ra vi phạm hoặc trụ sở làm việc, hiện nay, Luật XLVPHC năm 2020 đã quy định cụ thể địa điểm lập biên bản vi phạm hành chính phải là nơi xảy ra vi phạm hành chính, riêng đối với trường hợp biên bản vi phạm hành chính được lập tại trụ sở cơ quan của người có thẩm quyền lập biên bản hoặc địa điểm khác thì phải ghi rõ lý do vào biên bản vi phạm hành chính. Từ 01/01/2022, nơi lập biên bản vi phạm hành chính phải là nơi xảy ra vi phạm hành chính, riêng đối với trường hợp biên bản vi phạm hành chính được lập tại trụ sở cơ quan của người có thẩm quyền lập biên bản hoặc địa điểm khác thì phải ghi rõ lý do vào biên bản vi phạm hành chính.



n bộ Công an TX Bình Long, Bình Phước đang làm việc với người vi phạm tại trụ sở cơ quan

- Về nội dung biên bản: Luật XLVPHC năm 2020 bổ sung quy định biên bản phải mô tả vụ việc, hành vi vi phạm; ghi rõ thời gian, địa điểm lập biên bản; thông tin về người lập biên bản…

- Về đại diện chính quyền địa phương ký vào biên bản trong trường hợp người vi phạm không ký: Trước đây Luật XLVPHC năm 2012 chỉ nêu là đại diện chính quyền địa phương dẫn đến áp dụng không thống nhất, không rõ là cấp xã hay cấp huyện?; quy định phải có ít nhất 02 người chứng kiến và không quy định trường hợp chính quyền cơ sở và người chứng kiến không ký thì biên bản có giá trị pháp lý không? (nhiều trường hợp vi phạm hành chính xảy ra trong đêm, vùng sâu, vùng xa, chỉ có người có thẩm quyền lập biên bản và người vi phạm, trong khi người vi phạm không chịu ký biên bản, chống đối, bỏ đi,…) dẫn đến nhiều bất cập và có nhiều cách hiểu, cách áp dụng khác nhau. Luật XLVPHC năm 2020 đã quy định cụ thể chính quyền cấp xã hoặc ít nhất 01 người chứng kiến, cụ thể như sau: “trường hợp người vi phạm, đại diện tổ chức không ký vào biên bản vi phạm hành chính thì biên bản phải có chữ ký của đại diện chính quyền cấp xã nơi xảy ra vi phạm hoặc của ít nhất 01 người chứng kiến xác nhận việc cá nhân, tổ chức không ký vào biên bản vi phạm hành chính; trường hợp không có chữ ký của đại diện chính quyền cấp xã hoặc của người chứng kiến thì phải ghi rõ lý do vào biên bản”.

- Chuyển biên bản vi phạm hành chính trong trường hợp không thuộc thẩm quyền của người lập biên bản: Luật đã quy định cụ thể trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản, trừ trường hợp biên bản được lập trên tàu bay, tàu biển, tàu hỏa, người lập biên bản phải chuyển ngay cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính khi tàu bay, tàu biển, tàu hỏa về đến sân bay, bến cảng, nhà ga (trước đây chỉ quy định chuyển ngay, không ghi rõ thời gian là bao lâu).

- Bổ sung quy định về sửa chữa sai sót biên bản vi phạm hành chính: Luật XLVPHC năm 2020 bổ sung quy định: Trường hợp biên bản vi phạm hành chính có sai sót hoặc không thể hiện đầy đủ, chính xác các nội dung thì tiến hành xác minh tình tiết vụ vi phạm để làm căn cứ ra quyết định xử phạt.

- Quy định rõ việc không lập biên bản vi phạm hành chính đối với trường hợp cơ quan tố tụng chuyển hồ sơ vụ vi phạm đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính để xử phạt hành chính, vì trước đây, Luật XLVPHC năm 2012 không quy định cụ thể việc có cần lập biên bản vi phạm hành chính đối với những vụ vi phạm do cơ quan tố tụng thụ lý nhưng xác định chưa đến mức xử lý hình sự và chuyển người có quyết định xử phạt ban hành quyết định xử phạt hành chính hay không.

10. Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính: Luật XLVPHC năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung nhiều vấn đề vướng mắc liên quan đến quy định này, cụ thể: 

Thời hạn ra quyết định xử phạt theo Luật XLVPHC năm 2012 là tính ngày, bao gồm cả thứ 7, chủ nhật, ngày nghỉ lễ, tết nên thời gian rất ngắn, gây khó khăn cho người xử phạt nhất là các trường hợp lập biên bản vi phạm hành chính vào ngày cuối tuần, nghỉ lễ, tết, do đó, Luật XLVPHC năm 2020 đã sửa đổi theo hướng từ tính ngày sang tính ngày làm việc, tăng thời hạn xử phạt đối với trường hợp phải chuyển hồ sơ và chuyển từ tính ngày, sang tính tháng đối với các vụ việc phức tạp và thuộc trường hợp giải trình, cụ thể:

- Luật XLVPHC năm 2012 quy định: 

+ Đối với các vụ việc vi phạm hành chính thông thường, đơn giản: thời hạn ra quyết định XLVPHC là 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính (bao gồm cả thứ 7, chủ nhật, lễ, tết);

+ Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình: thời hạn ra quyết định XPVPHC tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản (bao gồm cả thứ 7, chủ nhật, lễ, tết);

+ Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc trường hợp giải trình được gia hạn không quá 30 ngày (tức là tối đa là 60 ngày bao gồm cả thứ 7, chủ nhật, lễ, tết);

- Luật XLVPHC năm 2020 quy định: 

+ Đối với trường hợp không thuộc giải trình, xác minh, không có tình tiết phức tạp thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 07 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. 

+ Trường hợp phải chuyển hồ sơ xử phạt thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 10 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính (trừ trường hợp hồ sơ do cơ quan tố tụng chuyển sang).

+ Đối với trường hợp giải trình, xác minh các tình tiết có liên quan thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 01 tháng, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính (kể cả ngày nghỉ, lễ, tết).

+ Đối với trường hợp giải trình, xác minh các tình tiết có liên quan mà đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp, cần thêm thời gian xác minh, thu thập chứng cứ thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 02 tháng, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính (kể cả ngày nghỉ, lễ, tết).

11. Bổ sung quy định về phát hiện vi phạm hành chính bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ, trước đây Luật XLVPHC năm 2012 chỉ quy định “Cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông và bảo vệ môi trường”, Luật XLVPHC năm 2020 đã bổ sung thêm các trường hợp phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; phòng chống ma túy; phòng chống tác hại của rượu, bia và lĩnh vực khác do Chính phủ quy định. Đây là quy định rất phù hợp với tình hình hiện nay và đã cơ bản khắc phục được những vướng mắc, đặc biệt là thuận lợi hơn đối với lực lượng Công an nhân dân và các lực lượng chức năng khác khi tiến hành xử lý đối với các hành vi vi phạm hành chính.

12. Về thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính:

Luật XLVPHC năm 2020 quy định cụ thể: “thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, kể từ ngày ra quyết định, quá thời hạn này thì không thi hành quyết định đó nữa, trừ trường hợp quyết định xử phạt có áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, biện pháp khắc phục hậu quả thì vẫn phải tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, biện pháp khắc phục hậu quả, tức là quy định tất cả các trường hợp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, khắc phục hậu quả vẫn phải thi hành; so với Luật XLVPHC năm 2012 chỉ quy định tịch thu tang vật, phương tiện thuộc loại cấm lưu hành, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp cần thiết để bảo vệ môi trường, bảo đảm giao thông, xây dựng và an ninh trật tự, an toàn xã hội. 

13. Có nhiều quy định mới về hoãn thi hành quyết định phạt tiền và giảm miễn tiền phạt:

- Về hoãn thi hành quyết định phạt tiền: Luật XLVPHC năm 2012 quy định chỉ cá nhân bị phạt tiền từ 3 triệu đồng trở lên mới được hoãn, tổ chức không được hoãn thi hành quyết định phạt tiền; Luật XLVPHC năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung thêm quy định tổ chức được hoãn tiền phạt, cụ thể như sau:

+ Cá nhân bị phạt tiền từ 2.000.000 đ trở lên (giảm 1 triệu so với Luật năm 2012); tổ chức bị phạt tiền từ 100.000.000 đ trở lên;

+ Bổ sung trường hợp cá nhân mắc bệnh hiểm nghèo, tai nạn thì phải có xác nhận của cơ sở khám, chữa bệnh tuyến huyện trở lên.

+ Đối với tổ chức đang gặp khó khăn về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh thì phải có xác nhận của UBND cấp xã, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực tiếp  hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp.

- Về giảm, miễn tiền phạt: Luật XLVPHC năm 2020 bổ sung thêm đối tượng miễn, giảm tiền phạt vi phạm hành chính là tổ chức, đồng thời quy định cụ thể các trường hợp cá nhân, tổ chức được miễn toàn bộ tiền xử phạt vi phạm hành chính.

- Về thẩm quyền xem xét giảm, miễn tiền phạt: Luật XLVPHC năm 2012 quy định cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền xử phạt mới có quyền quyết định miễn, giảm tiền phạt (quy định này là không thực tế và phát sinh nhiều vướng mắc), Luật XLVPHC năm 2020 quy định người ra quyết định xử phạt có quyền quyết định việc miễn, giảm tiền phạt.

14. Sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, điển hình như:

- Luật XLVPHC năm 2020, bên cạnh việc quy định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt áp dụng trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt, thì còn bổ sung trường hợp cưỡng chế khi cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện hoàn trả kinh phí cho cơ quan đã thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp khẩn cấp, cần khắc phục ngay hậu quả để kịp thời bảo vệ môi trường, bảo đảm giao thông thì cơ quan nơi người có thẩm quyền xử phạt đang thụ lý hồ sơ vụ vi phạm hành chính tổ chức thi hành biện pháp khắc phục hậu quả.

+ Về giao quyền cưỡng chế, Luật XLVPHC năm 2012 quy định người có thẩm quyền cưỡng chế có thể giao quyền cho cấp phó, việc giao quyền chỉ được thực hiện khi cấp trưởng vắng mặt và phải được thể hiện bằng văn bản, còn Luật XLVPHC năm 2020 sửa đổi theo hướng người có thẩm quyền cưỡng chế có thể giao quyền cho cấp phó, việc giao quyền thể hiện bằng quyết định, người được giao quyền không được giao quyền cho người khác (tức là có thể được giao quyền cưỡng chế cho cấp phó thường xuyên chứ không giới hạn như Luật XLVPHC năm 2012 chỉ được thực hiện khi cấp trưởng vắng mặt).

+ Luật XLVPHC năm 2020 đã quy định cụ thể trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong việc cung cấp thông tin, khấu trừ tài khoản đối với tổ chức, cá nhân vi phạm bị cưỡng chế, cụ thể như sau: “Tổ chức tín dụng, Kho bạc Nhà nước, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nơi cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế thi hành mở tài khoản có trách nhiệm cung cấp thông tin về điều kiện thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ khi nhận được yêu cầu bằng văn bản của người có thẩm quyền cưỡng chế; tiến hành phong tỏa số tiền trong tài khoản tương đương với số tiền mà cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế phải nộp hoặc phong tỏa toàn bộ số tiền trong tài khoản trong trường hợp số dư trong tài khoản tiền gửi ít hơn số tiền mà cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế phải nộp; thực hiện việc trích chuyển số tiền phải nộp theo yêu cầu của người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế. Trong thời hạn 05 ngày làm việc trước khi trích chuyển, tổ chức tín dụng, Kho bạc Nhà nước, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có trách nhiệm thông báo cho cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế biết việc trích chuyển; việc trích chuyển không cần sự đồng ý của cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế”.

15. Bổ sung quy định về thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, cụ thể: Luật XLVPHC năm 2020 quy định thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính không phụ thuộc vào giá trị tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, quy định này đã giải quyết vướng mắc đối với các trường hợp giá trị tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị lớn, nếu quy ra tiền sẽ cao hơn mức tiền phạt của người có thẩm quyền xử phạt.

16. Bổ quy định Trưởng Phòng Tư pháp cấp huyện thẩm kiểm tra tính pháp lý của các hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc, theo Luật XLVPHC năm 2012 thì Phòng Tư pháp cấp huyện kiểm tra tính pháp lý hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc; tuy nhiên, theo Luật XLVPHC năm 2020 thì đã bỏ quy định này mà thay vào đó là Cơ quan lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý của hồ sơ đề nghị.

Kết luận: Có hiệu lực từ 01/01/2022, Luật sửa sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính cơ bản đã khắc phục những vướng mắc của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, góp phần đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên thực tế, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội. Để thi hành Luật, Chính phủ, các bộ, ngành cần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các nghị định, thông tư quy định cụ thể về xử lý vi phạm hành chính (hiện có hơn 100 nghị định, thông tư về xử lý, vi phạm hành chính) để đảm bảo việc triển khai thi hành Luật được đồng bộ. Những nội dung trên là những điểm mới cần lưu ý của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính liên quan trực tiếp đến công tác xử lý vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền của lực lượng Công an nhân dân, do đó, cần nghiên cứu, thực hiện đảm bảo đúng quy định pháp luật. Trong thời gian Luật XLVPHC năm 2020 chưa có hiệu lực thi hành, các cơ quan, đơn vị, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính cần nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của Luật XLVPHC năm 2012 và tham gia tích cực vào việc góp ý xây dựng, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác XLVPHC, đảm bảo việc triển khai thi hành Luật XLVPHC năm 2020 được đồng bộ, thống nhất./.

Xuân Quynh