Ảnh: Kết quả biểu quyết thông qua luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 (nguồn: internet)
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 (gọi tắt là Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020) đã sửa đổi, bổ sung 54 điều về nội dung và 14 về kỹ thuật của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 (gọi tắt là Luật năm 2015). Sau đây là những điểm mới của Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 so với Luật năm 2015.
1. Bổ sung một số loại văn bản QPPL
- Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 đã bổ sung: Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là văn bản quy phạm pháp luật.
- Sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, là văn bản QPPL. Không ban hành thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, trước đây Luật Ban hành văn bản QPPL 2015 thì có loại văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
2. Bổ sung quy định về phản biện xã hội
- Luật năm 2015 chỉ mới quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia góp ý xây dựng văn bản QPPL, chưa đề cập đến việc phản biện xã hội. Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 đã quy định cụ thể về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như sau:
+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật này và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
+ Phản biện xã hội được thực hiện trong thời gian cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội chủ trì soạn thảo tổ chức lấy ý kiến về dự thảo văn bản. Đối với dự thảo văn bản QPPL đã được phản biện xã hội thì hồ sơ dự án, dự thảo gửi thẩm định, thẩm tra, trình cơ quan có thẩm quyền phải bao gồm văn bản phản biện xã hội.
- Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 bổ sung quy định về việc giải trình ý kiến góp ý, phản biện, cụ thể: Ý kiến tham gia về đề nghị xây dựng văn bản QPPL, dự thảo văn bản QPPL và ý kiến phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản QPPL phải được nghiên cứu, giải trình, tiếp thu trong quá trình chỉnh lý dự thảo văn bản.
3. Về sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản QPPL
Cơ bản Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 kế thừa các quy định về việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản QPPL. Tuy nhiên, quy định rõ hơn việc một văn bản sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản, cụ thể:
Một văn bản QPPL có thể được ban hành để đồng thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ nội dung trong nhiều văn bản QPPL do cùng cơ quan ban hành trong các trường hợp sau đây:
Để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
Nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ có liên quan chặt chẽ với nhau để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với văn bản mới được ban hành;
Để thực hiện phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính đã được phê duyệt.
4. Về quy định thủ tục hành chính
Luật năm 2015 nghiêm cấm việc quy định thủ tục hành chính trong Thông tư của Chánh án Tòa án tối cao, Thông tư liên tịch của Chánh án Tòa án nhân dân tối cáo với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nghị quyết, quyết định của HĐND các cấp…, trừ trường luật giao.
Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 cơ bản kế thừa việc nghiêm cấm quy định thủ tục hành chính trong các văn bản nêu trên tuy nhiên ngoài việc được quy định thủ tục hành chính trong trường hợp luật giao thì Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 còn bổ sung các trường hợp được quy định thủ tục hành chính trong văn bản QPPL như: Trường hợp được nghị quyết của Quốc hội giao hoặc trường hợp cần thiết phải quy định thủ tục hành chính trong nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trường hợp cần biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
5. Ban hành Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Luật năm 2015 chỉ quy định ban hành nghị quyết liên tịch của các cơ quan trên trong trường hợp quy định chi tiết những vấn đề được luật giao.
Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 ngoài trường hợp trên còn bổ sung trường hợp ban hành nghị quyết liên tịch của các cơ quan trên là: Hướng dẫn một số vấn đề cần thiết trong công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
6. Bổ sung các trường hợp ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND cấp huyện, xã
Luật năm 2015 quy định: Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã ban hành nghị quyết, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã ban hành quyết định để quy định những vấn đề được luật giao.
Cấp huyện, cấp xã được ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Dẫn đến hạn chế việc ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND cấp huyện, xã, không phù hợp với đặc điểm tình hình của từng địa phương.
Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 đã mở rộng thẩm quyền của HĐND, UBND cấp xã trong việc ban hành văn bản QPPL. Ngoài trường hợp Luật giao thì HĐND, UBND cấp huyện còn được ban hành văn bản QPPL để quy định những vấn đề được Nghị quyết của Quốc hội giao hoặc để thực hiện việc phân cấp cho chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước cấp dưới theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương.
Hội đồng nhân dân cấp xã ban hành nghị quyết, Ủy ban nhân dân cấp xã ban hành quyết định để quy định những vấn đề được luật, nghị quyết của Quốc hội giao.
7. Về trình tự xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại một kỳ họp Quốc hội
Luật ban hành văn bản QPPL năm 2015 quy định 9 bước để thông qua dự án luật, nghị quyết. Luật ban hành văn bản QPPL 2020 đã kế thừa Luật năm 2015 và bổ sung thêm một số bước, thành 11 bước thông qua luật, nghị quyết, cụ thể bổ sung các bước sau:
- Tổng thư ký Quốc hội tổ chức tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội, kết quả biểu quyết để báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội và gửi cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo.
- Trong trường hợp dự thảo chưa được thông qua hoặc mới được thông qua một phần thì Quốc hội xem xét, quyết định việc trình lại hoặc xem xét, thông qua tại kỳ họp tiếp theo theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
8. Về thẩm định dự thảo nghị quyết do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình, Quyết định của UBND cấp tỉnh
- Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 bổ sung thêm một số nội dung trong quá trình Sở Tư pháp thẩm định dự thảo Nghị quyết do UBND cấp tỉnh trình, như:
+ Sự cần thiết ban hành nghị quyết quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Luật này;
+ Sự phù hợp của nội dung dự thảo nghị quyết với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước.
- Luật năm 2015 quy định việc thẩm định dự thảo văn bản QPPL của UBND cấp tỉnh thực hiện giống như dự thảo Nghị quyết HĐND cấp tỉnh. Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 đã tách bạch nội dung thẩm định đối với văn bản QPPL của UBND cấp tỉnh và bổ sung một số nội dung phải thẩm định như sau:
+ Sự cần thiết ban hành quyết định quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 28 của Luật này;
+ Sự phù hợp của nội dung dự thảo quyết định với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước;
+ Sự cần thiết, tính hợp lý, chi phí tuân thủ các thủ tục hành chính trong dự thảo quyết định, nếu trong dự thảo quyết định có quy định thủ tục hành chính; việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo quyết định, nếu trong dự thảo quyết định có quy định liên quan đến vấn đề bình đẳng giới;
+ Nguồn lực, điều kiện bảo đảm thi hành quyết định;
+ Ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản.
9. Về thẩm định dự thảo quyết định của UBND cấp huyện
Luật năm 2015 quy định nội dung thẩm định quyết định của UBND cấp huyện gồm các nội dung tương tự thẩm định dự thảo Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh.
Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 quy định rõ nội dung cần thẩm định của quyết định UBND cấp huyện tương tự như thẩm định dự thảo quyết định của UBND cấp tỉnh đã nêu ở mục 8.
10. Các trường hợp xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn
Cơ bản Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 kế thừa các trường hợp ban hành văn bản QPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn nhưng có sửa đổi, bổ sung như sau:
- Đối với trường hợp cấp bách để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn trước đây Luật năm 2015 quy định phải theo quyết định của Quốc hội. Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 bỏ quy định theo quyết định của Quốc hội. Như vậy đồng nghĩa theo Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 thì đối với trường hợp cấp bách thì Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính Phủ, Bộ trưởng, HĐND, UBND các cấp vẫn có quyền ban hành văn bản QPPL theo thủ tục rút gọn.
- Bổ sung ban hành văn bản rút gọn trong trường hợp cần ban hành ngay văn bản QPPL để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
+ Trường hợp cần bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản QPPL trái pháp luật hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội.
+ Trường hợp cần kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần của văn bản QPPL trong một thời hạn nhất định để giải quyết những vấn đề cấp bách phát sinh trong thực tiễn.
11.Về thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
Cơ bản Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 kế thừa quy định về thời điểm có hiệu lực của văn bản QPPL ở Trung ương, tỉnh, huyện và xã. Tuy nhiên, đối với cấp huyện, cấp xã bên cạnh việc có hiệu lực không sớm hơn 10 ngày (cấp tỉnh), 07 ngày (đối với cấp huyện, xã) kể từ ngày ký ban hành bổ sung thêm không sớm hơn 10 ngày (cấp tỉnh), 07 ngày (đối với cấp huyện, xã) kể từ ngày thông qua.
Văn bản QPPL được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn thì có thể có hiệu lực kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành.
12. Về ngưng hiệu lực văn bản
Luật năm 2015 quy định: Cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật quyết định ngưng hiệu lực của văn bản đó trong một thời hạn nhất định để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội phát sinh.
Luật năm 2015 không quy định rõ việc ngưng hiệu lực toàn bộ hay một phần văn bản. Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 đã quy định cụ thể ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần của văn bản, đồng thời thay cụm từ “để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội phát sinh” thành “để kịp thời bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
Nguyễn Đức Hiếu